Vài Trang Bi Sử – Thảm Kịch Biển Đông

Trường hợp của thuyền nhân VŨ DUY THÁI

(Tự thuật từ trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan – Tháng 4-1980)

Tôi tên là Vũ Duy Thái, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1936 tại Hóa Lộc,Tuyên Sơn, Ninh Bình (Bắc Việt). Thuở nhỏ  rất nghèo, phải chăn trâu  cắt cỏ từ lúc 5 tuổi. Mồ côi cha năm 10 tuổi, mẹ ốm đau thuờng xuyên, nhưng lần hồi đấn năm 23 tuổi thì đời sống tương đối  dễ chịu hơn với nghề thợ may.

Tôi di cư vào nam năm 1954 và lập gia đình vào ngày 6-4-1958 ở xứ An Lạc, Gia Định. Nhà tôi tên là Đinh thị Bằng, sinh năm 1940 tại Phú Nhai, Nam Định (Bắc Việt). Nhà tôi cũng thuộc thành phần di cư năm 1954. Lúc mới lấy nhau, chúng tôi rất nghèo. Tiền đám cưới có 6.000 bạc chúng tôi cũng lo không nổi phải đem bán cái máy may được hai ngàn và vay mượn bạn bè thêm bốn ngàn nữa mới tạm đủ.

Như thế, nhà tôi đã khởi sự chia sẻ với tôi mọi nỗi gian nan, vất vả của đời sống ngay từ lúc mới bước chân về  nhà chồng. Những năm sống thiếu thốn cực nhọc trôi qua trong sự đảm đang, tần tảo của nhà tôi. Là một phụ nữ yếu đuối về thể chất nhưng lại rất mạnh mẽ về tinh thần, nhà tôi đã phấn đấu, hy sinh rất nhiều để lo lắng cho chồng con. Gần như trong suốt cuộc đời, nhà tôi không được hưởng thụ gì, không có một thói quen giải trí nào, không ưa thích một điều gì ngoài niềm vui lo toan sắp xếp công việc tề gia nội trợ, chăm bón bữa ăn giấc ngủ cho chồng cho con. Lúc nào nhà tôi cũng cố gắng sắp xếp để cho chồng con được ăn ngon, mặc đủ. Dưới mắt tôi, nhà tôi là một phụ nữ tuyệt vời, một mẫu nguời phụ nữ VN đảm đang, trung hậu, hiền hòa, luôn luôn là niềm an ủi khích lệ, là chỗ dựa vững chắc cho toàn thể gia đình.

Chúng tôi sinh hạ được tất cả 7 con, tuần tự gồm có:

  1. Giuse Vũ Duy Thanh sinh năm 1959.
  2. Vincente Vũ Duy Trung sinh năm 1961,
  3. Phero Vũ Duy Tuấn sinh năm 1963
  4. Maria Vũ thị Thanh Thùy sinh năm 1966
  5. Maria Vũ thị Thanh Thùy Trang sinh năm 1968
  6. Martin Vũ Duy Tài sinh năm 1971
  7. Phero Vũ Duy Trí sinh năm 1975

Gia đình tôi được hoàn toàn hạnh phúc nếu như không có sự sụp đổ miền Nam, đất nuớc rơi  vào tay CS.

Là một gia đình Thiên Chúa giáo ngoan đạo, các con tôi đã thụ huởng một nền giáo dục nằm trong tình yêu thương của Thiên Chúa, do đó không bao giờ chúng tôi có thể sống nổi dưới ách độc tài, đàn áp của CS. Vì thế chúng tôi đành quyết định bỏ nước ra đi.

Chuyến vuợt biển thứ nhất, vợ chồng tôi cho 3 cháu trai đầu đi truớc.

Tầu khởi hành  từ bến Bạch Đằng Sài Gòn  vào ngày 1 tháng 10 năm 1978 chở theo 130 người. Nhưng chỉ đi được 4 ngày thì chết máy. Ghe lạc vào một đảo san hô đầy đá ngầm thuộc đảo Bành Hồ (Đài Loan). Sống ở đó 50 ngày liền, thực phẩm hết, số nguời chết vỉ đói cứ tăng dần và những nguời sống sót đành xẻ thịt người chết  mà  ăn để sinh tồn. Hai cháu lớn của tôi , Vũ Duy Thanh và Vũ Duy Trung đã bị rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát này. Các cháu đã chết và xác của các cháu đành để cho đồng ghe ăn thịt.

Mãi tới sáng ngày thứ 50 trên đảo mới có tầu đánh cá Đài Loan tới cứu. Cả ghe 130 nguời chỉ còn sống  sót có 60 nguời. Nhưng trên đường từ đảo san hô vào Đài Loan, lại có thêm một số nguời chết nữa vì quá kiệt sức. Rút cục khi đặt chân lên đất liền ở Đài  Loan, chỉ còn 34 nguời sống sót, trong số đó có con trai thứ ba củ tôi là Vũ Duy Tuấn và  một đứa con đỡ đầu  của tôi nữa  tên Trịnh Vĩnh Thụy.

Hiện cháu Tuấn đang ở Đài Bắc. Còn cháu Thụy, nhờ có thân nhân ruột thịt bảo lãnh nên đã định cư  tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Truớc thảm kịch có hai anh ruột bị chết thảm, cháu Tuấn vì sợ bố mẹ  đau buồn nên đã giấu biệt tin tức. Mãi tới ngày 20-12-1978, một nguời bạn của tôi tên Đỗ Minh Ngự ở Mỹ viết thư báo tin, gia đình tôi mới được rõ tin tức về chuyến đi kinh hoàng đó. Vào đúng thời điểm này, gia đình chúng tôi lại đang chuẩn bị vuợt biển chuyến thứ hai. Chúng tôi làm lễ cầu nguyện 3 ngày liền cho hai cháu ở nhà thờ An Lạc, Chí Hoà, rồi mặc dù vô cùng đau đớn, chúng tôi vẫn tiếp tục xúc tiến cuộc hành trình vượt biển với cả gia đình.

Chúng tôi rời Sài Gòn vào ngày 28 tháng 12 năm 1979 lúc 4 giờ sáng để đi xuống Rạch Giá. Qua 4 giờ sáng ngày 29-12 thì ghe của chúng tôi ra khơi, chiếc ghe mang số  VNKG 0980, dài 13 m, ngang 2,5m, chở 120  người. Ghe chạy tới 7 giờ chiều ngày 30-12 thì gặp hải tặc Thái Lan (trên tàu cuớp có treo cờ Thái Lan), chúng xáp lại  cuớp lần đầu. Cướp xong, chúng bỏ đi. Qua 8 giờ sáng ngày 31-12 lại gặp một tầu cướp khác. Lần này cướp xong, chúng phá máy tầu. Một chuỗi 8, 9 tiếng nổ phát ra ở hầm máy làm chiếc ghe  lập tức bị chao đi và chìm lỉm ngay ít phút sau đó. Tất cả mọi nguời trên ghe đều la khóc kinh hoàng.

Vào những giây phút cực kỳ khiếp đảm này, vợ chồng chúng tôi không nói được với nhau câu nào. Tôi chỉ còn kịp nhin thấy nhà tôi với vẻ mặt hết sức kinh hoàng, thảng thốt. Rồi tôi cúi xuống hôn hai con chót của tôi là cháu Tài (8 tuổi) và cháu Trí (4 tuổi) . Tôi cũng nghe thấy tiếng cháu Thùy la lên:  “ Cha ơi….Chú Tuynh kìa..” và cháu Trang kêu lên: “ Cha ơi..chết rồi…”. Rồi ghe chìm lỉm.

Lúc đó nhà tôi vẫn ở bên cạnh tôi. Nhưng nhà tôi không  hề níu kéo lấy tôi. Đây là sự hy sinh cao cả cuối cùng của nhà tôi dành cho chồng con. Nhà tôi không muốn tôi bận bịu, vướng mắc giữa sóng biển để tôi có cơ hội cứu các con. Khốn thay, một cơn sóng độc ác đã ùa tới nhận chìm tất cả những người thân yêu  của tôi. Tôi không còn nhìn thấy ai nữa. Chỉ có sóng nước ngập đầu. Ngay lúc đó, tôi được một người cháu tên Phương níu tôi lại và cho tôi bíu  vào một cái can nước. Tôi ôm cái can một cách hoàn toàn theo bản năng. Và lúc tôi mở được mắt  ra thì tôi thấy nhà tôi nổi vật vờ ngay truớc mắt. Rồi sau đó tôi ngất đi, không còn biết gì nữa.

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên tầu của hải tặc. Bên cạnh tôi là  là hai em Hùng  và Châu  đang làm hô hấp nhân tạo cho nhà tôi, chắc là nhà tôi vừa được các em vớt lên. Tôi cũng guợng dậy để ra phụ giúp nhưng bọn hải tặc đã ra hiệu là phải hất nhà tôi xuống biển. Thật không còn gì tan nát hơn lòng tôi lúc đó. Tôi nhào lại, ôm nhà tôi vào lòng, đau đớn nhìn nhà tôi hai mắt vẫn còn mở nhưng thân hình đã bất động. Tôi đã dùng tay vuốt cho hai mắt của nhà tôi khép lại rồi tôi  hiêng ở đầu, hai em Hùng và Châu khiêng ở chân, hạ nhà tôi xuống  biển.

Đó là lần cuối cùng tôi ở cạnh nhà tôi. Những giây phút đớn đau nhất của một đời người. Một cơn sóng áp tới. Biển xanh bao la đầy sóng dữ đã vĩnh viễn lôi cuốn đi người vợ thân yêu nhất đời của tôi. Không bao giờ tôi còn được gặp lại. Không có cả một nấm mồ để tôi lui tới thăm viếng. Một thoáng lay động trên mặt biển. Rồi  vĩnh viễn chia lìa.

Ôi, đau đớn nào cho bằng sự đớn đau mà tôi đã phải chịu đựng. Tất cả những nguời thân yêu nhất của tôi đã ra đi trong khoảnh khắc. Khi chết, nhà tôi  bận một cái quần đen, một cái áo montagut đen. Nét mặt nhà tôi không tỏ vẻ đau đớn gì cả. Chỉ có nét thảng thốt thoáng qua trên khuôn mặt bình thản. Đó là hình ảnh cuối cùng của nhà tôi mà tôi  ghi nhớ được trưóc giây phút ngàn năm vĩnh biệt.

Kiểm điểmlại, chẳng những nhà tôi chết trên biển mà tất cả  4 đứa con của tôi cũng đều chết đuối hết: Cháu Thanh Thùy. Cháu Thùy Trang. Cháy Duy Tài. Cháu Duy Trí. Những người thân yêu nhất đời của tôi đã vĩnh viễn đi vào lòng biển sâu. Tôi tưởng rằng nếu trên đời này có những thảm họa đớn đau nào thì thảm họa giáng xuống gia đình của tôi phải kể là một trong những thảm họa lớn nhất, khủng khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng của một con người.

Cùng số phận với vợ con tôi còn có 65 nguời khác nữa đi cùng ghe  với tôi cũng đã bị chết chìm. Như thế, cả thẩy 70 sinh mạng thuyền nhân trong ghe này đã bị chết dưới bàn tay bạo tàn của hải tặc.

Số còn lại được hải tặc đưa vào đảo Kra, một hòn đảo nằm trơ vơ giữa biển cả trong vịnh Thái lan. Đảo này bây giờ trở thành  địa ngục của dân VN tỵ nạn bằng thuyền.

Bởi vì bất cứ ai  bị đưa vào đây đều trở thành nạn nhân của sự bạo hành : tra tấn đàn ông để khảo của và bắt chỉ chỗ trốn của phụ nữ, còn phụ nữ thì lẩn lút trong hốc núi, trong rừng sâu hay dưới vách đá ngầm nhô ra ngoài biển. Trên đảo có nhiều dấu tích thảm thương của đồng bào đi truớc để lại như những hàng chữ viết lên vách đá, những mớ tóc đàn bà vương vãi rải rác khắp mọi nơi ( chắc là được cắt đi để giả trai) và cả những xác thuyền, những ngôi mộ của những người đã bỏ xác ở đó.

Chúng tôi được đưa lên đảo vào lúc 6 giờ chiều ngày 31-12 năm 1979. Lòng đớn đau, thân xác rã rời, bệnh hoạn. Các em tôi đã phải tìm kiếm cỏ khô trải thành nệm cho tôi nằm, lo tìm thức ăn cho tôi ăn. Và vì tôi quá đau ốm nên chú Chiếu đã chịu khó đi mầy mò ở khắp mọi chỗ, bòn nhặt ở những nơi có vật dụng vương vãi của đồng bào đi trước bỏ lại  để tìm kiếm cho tôi những viên thuốc, bất kể là thuốc gì miễn nó là thuốc. Có những viên đã rữa nát vì nắng mưa, có những viên mòn vẹt chỉ còn lại một phần tư nhưng tôi vẫn cố nuốt để cầm cự được cho sức khoẻ đã vô cùng suy sụp của tôi.

6 ngày trên đảo là 6 ngày buồn thảm, kinh hoàng. Đói, bệnh và những nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của tâm hồn tôi. Trong khi ấy, các phụ nữ đi cùng ghe vẫn phải lẩn trốn như những con vật vô phương tự vệ trước những cuộc lùng sục bạo tàn của hải tặc,

Đến ngày 6 tháng 1 năm 1980, chúng tôi được Cao Ủy LHQ phát hiện (bằng trực thăng bay qua đảo) và đưa thuyền ra đón vào quận Pakpanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thamaraj. Ở đó 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái, thì chúng tôi được đưa về trại Songkhla ngày 23-1-1980.

Tôi thấy cần phải ghi thêm ở đây lòng biết ơn của tôi đối với các em Hùng, Châu đã  tận tình săn sóc  tôi, an ủi tôi trong cuộc hành trình đầy gian khổ mà chúng tôi đã vừa trải qua. Sự ân cần giúp đỡ của các em sẽ làm tôi ghi nhớ mãi mãi không bao giờ quên.

***

Hôm nay là ngày 10 tháng 4 năm 1980, là ngày thứ 100  nhà tôi và các cháu chết trên biển, trong vịnh Thái Lan trên đường vượt thoát  xứ CS để đi tìm tự do. Tôi đang ở  trại tỵ nạn Songkhla. Cách đây 50 ngày, cha tuyên uý Joe Devlin đã dâng Thánh lễ cầu nguyện cho nhà tôi và các con tôi tại nhà thờ ở trong trại. Hôm nay, nhân dịp 100 ngày, Người cũng dâng lễ cầu nguyện cho. Tôi vô cùng đớn đau, vô cùng chua xót nhớ lại những người thân yêu nhất đời của tôi. Vợ tôi, 6 con tôi đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Thời gian dù là một liều thuốc nhiệm mầu giúp cho tâm hồn nguời ta bớt thương đau, nhưng không bao giờ tôi quên được nhà tôi, ngưòi phụ nữ đảm đang, hiền hòa, suốt đời tận tụy bên chồng, bên con không hể được hưởng thụ lấy một ngày nhàn hạ.

Lậy  Chúa, xin Chúa hãy xót thương cho những linh hồn đã chết đớn đau trong thảm họa đớn đau chung của cả dân tộc VN chúng con.

Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả vế nơi an  nghỉ bình an hạnh phúc đời đời nơi nước Chúa.

Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp của đời người, để cho con còn đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con còn đang sống ở Đài Loan.

Con đã chịu đau thương quá nhiều.

Con cầu nguyện ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những  người sẽ  vượt  biển  ra đi đều tới bến bờ bình an.

Songkhla  ngày 10 tháng 4 năm 1980

VŨ DUY THÁI

(Nhân giỗ 100 ngày của vợ và  các con chết trên Biển Đông)

Nhật Tiến ghi theo lời kể trực tiếp của Ông Vũ Duy Thái, tại lô lều 25 trại tỵ nạn Songkhla)

LoiTuongTrinhVuDuyThai

Xem Tiếp ‘Thư Ngỏ Viết Từ Songkhla’