Hành Trình Chữ Nghĩa, Những Cột Mốc Văn Chương Nhật Tiến – Nguyễn Mạnh Trinh

Năm 2012, nhà văn Nhật Tiến đã vừa hoàn tất 4 tác phẩm. Với một người ở tuổi quá  tuồi cổ lai hy, phải nói đây là một hiện tượng đặc biệt . Với hồi ký của một nhà giáo, ông viết với tâm cảm của một người luôn  quan tâm đến giáo dục và đau đớn xót xa khi là chứng nhân của một  xã hội  tha hóa cùng cực sau năm 1975 ở Việt Nam. Với bộ sách 3 cuốn đã hoàn tất” Hành Trình Chữ Nghĩa”, trong cương vị của một nhà văn ông phác họa lại một chặng đường văn học của mình với những thời điểm lồng trong đời sống lịch sử dân tộc.

Trong  lời nói đầu ông viết:

“ Quả là đời sống có muôn ngàn hoàn cảnh, nỗi niềm kể sao cho hết. Nhưng khi ngồi nhìn lại cả một hành trình chữ nghĩa kéo dài đã tới hơn 60 năm, tôi thấy việc gom lại những bài viết có tính cách tiêu biểu, những đoạn tường thuật hay những ghi nhận về các biến cố lớn lao đáng ghi nhớ trong suốt khoảng thời gian kéo dài nói trên thành những tập tài liệu lưu trữ hay tham khảo thì cũng là việc nên làm. Đó là lý do bạn đọc đã cầm trên tay cuốn đầu tiên trong nhiều tập Hành Trình Chữ Nghĩa sẽ còn tiếp tục ấn hành trong tương lai…”

Hành Trình Chữ Nghĩa là một tư liệu văn học  ghi chép lại những sự kiện nhưng không theo thứ tự thời gian. Tác giả từ những thời điểm đáng nhớ của lịch sử để có những nhận xét về sinh hoạt văn chương trong thời gian và không gian lúc đó.

11998149_1636965559878772_1726913863_n

Cuốn đầu tiên, Hành Trình Chữ Nghĩa,  khởi từ những hoài niệm văn chương về những người muôn năm cũ, để đi đến vài nét sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Nam giữa thập niên 60, rồi tình cảnh văn học ở thời điểm biến cố Tết  Mậu thân, đến tình cảnh văn nghệ sĩ miền Nam những ngày đầu của chế độ Cộng sản ở Sài Gòn sau năm 1975.  Ở hải ngoại, qua những sinh hoạt văn học của những người Việt lưu vong xa xứ, tác giả nhìn về quê nhà, hôì tưởng lại những tình cảnh mà chính cá nhân mình phải chịu đựng những nghiệt ngã của thời thế. Rồi thân phận thuyền nhân lưu vong, qua những hoạt động văn hóa xã hội của những ngày bắt đầu lưu lạc xứ người tạo dựng lại đời sống mới. Ông nêu lên những suy tư của mình, rất chủ quan, về những vấn đề mà bất cứ người Việt nào cũng lưu tâm. Và có lúc, đã không khoan nhượng  đặt vấn đề mà ông cho là những  sự kiện gán ghép không phải là sự thực về ông. Từ quan niệm của một nhà giáo, đến một hướng đạo sinh đã tạo thành một quan điểm của nhà văn Nhật Tiến. Trong phong cách  diễn tả của ông  thẳng thắn đòi hỏi sự  minh bạch công bằng.

Tự nhiên tôi lại nghĩ  đến lời  của Hàn Dũ thời Trung Đường với luận điểm “ bất đắc kỳ bình tắc minh( không được bình yên thì kêu)  “ Đại phàm vật nào cũng vậy, không được bình yên thì kêu. Cỏ cây vô thanh, gió thổi nên kêu, nước kia vô thanh gió xô nên kêu… Vàng đá vô thanh, đánh gõ nên kêu. Người ta đối với lời nói cũng vậy, có sự bất đắc  dĩ sau đó mới phát ra lời, giọng ca cũng mang tâm tư, tiếng khóc cũng chứa hoài niệm. Phàm buộc ra từ cửa miệng mà thành thanh âm, đều do có sự bất bình chăng?( trong Tống Mạnh Đông Dã Tự). Hàn Dũ nhấn mạnh sự phê phán xã hội đen tối của văn nghệ, nêu ra việc dám biểu tỏ tình cảm chân thực có khi đầy phẫn khích phát sinh từ nội tâm. Trong bài văn gửi Tống Mạnh Giao, Hàn Dũ đã thông cảm với tâm sự của người bạn và cho rằng nhà thơ đã phải có dũng khí và đảm lược để nói lên thành thực cái suy nghĩ của mình và phong cách ấy đáng quý gấp bội lần so với những bọn vương công quý tộc và những kẻ đạo đức giả chỉ biết nói những lời giả trá phê phán một chiều mượn những lý tưởng dối gạt…Hàn Dũ thời  xa xưa đã nhận định như thế thì ngày nay, đọc những trang sách Hành Trình Chữ Nghĩa của những điều cần thiết phải làm sáng tỏ thì độc giả sẽ có nhận định thế nào?

Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi

Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi

Hành Trình Chữ Nghĩa, cuốn 2, Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi, quả là “bất  đắc kỳ bình tắc minh”. Khi ở trong nước có phong trào đổi mới do Tổng Bí Thư Đảng Nguyễn Văn Linh khởi xướng” cởi trói cho văn nghệ sĩ” thì có một số nhà văn  đã trong thời điểm này nhân cơ hội viết những tác phẩm nói lên một phần nào tâm tư suy nghĩ của mình và phê phán những hiện tượng về chính trị và xã hội của chế độ. Họ muốn từ bỏ  chế độ bao cấp cả trong mọi sinh hoạt từ xã hội đến văn học, từ giáo dục đến chính trị. Có người còn đi sâu hơn về cuộc chiến vừa qua với sự lột trần chiêu bài lơi dụng lòng yêu nước của toàn dân khi chỉ đạo chiến tranh. Họ tạo ra một phong trào phản kháng với các tên tuổi như  Dương Thu Huơng, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Phùng Quán, Nguyễn Minh Châu,…

Ở hải ngoại,  có hai phản ứng tạo ra hai khuynh hướng khác nhau về dòng văn chương phản kháng ở trong nước. Một, cho rằng văn chương phản kháng sẽ là một mồi lửa đốt lên mở đầu cho phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ ở trong nước và những người ở hải ngoại nên tiếp sức cổ võ. Hai, có một khuynh hướng khác  cho rằng phong trào văn chương phản kháng ấy do chế độ Cộng sản đạo diễn và chỉ là một cách thế tạm thời giải  tỏa những phẫn nộ bất bình của dân chúng trong nước.

Những người  cổ võ cho văn chương phản kháng trong đó có nhà văn Nhật Tiến đã in tuyển tập Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương gồm những bài viết   của 27 tác giả ngoài nước viết về 79 tác giả trong nước. Nội dung cuốn sách cũng trích dẫn nhiều bài viết gồm thơ,  ký, truyện ngắn, tham luận, phỏng vấn  của các tác giả trong nước có khuynh hướng muốn đòi hỏi tự do cầm bút và phê phán chế độ Cộng sản đương thời. Khi cuốn sách ra đời thì cũng có một số người  khác ý kiến chống đối và  phê bình, có người  điềm tĩnh giãi bày suy nghĩ của mình nhưng có những người vì nhiều lý do nên đã có những ngôn từ không được bình thường  đôi khi  vượt quá những giới hạn của lễ độ và lịch sự cho phép. Nhà văn Nhật Tiến là một muc tiêu để bị đả kích, có lúc  bị mang cả đời tư ra bêu riếu. Ông gọi đó là sự “ xuyên tạc sự thật vàsinh hoat chữ nghĩa ở hải ngoại bị nhiều người lạm dụng quyền tự do cầm bút”.

Phần thứ ba của  cuốn sách”Hành Trình Chữ Nghĩa, Những Sự Thật Không Thể Chôn Vùi” là những phản biện về những phát biểu và luận điệu mà ông cho là “ quy chụp vô lý” về đời văn chương và đời tư cá nhân ông. Những sự kiện xảy ra, dù ở trong quá khứ nhưng vẫn còn nhiều nhân chứng để xác định sự trung thực hay  dối gạt vô bằng của những lời tố cáo kể trên.

Một Thời Như Thế

Một Thời Như Thế

Cuốn thứ ba trong bộ sách” Hành Trình Chữ Nghĩa, Một Thời Như Thế” lại trở về với một thời hoa niên Hà Nội, một thời Sài Gòn, một thời ở hải ngoại của 60 năm cầm bút. Những bước chân trở về  thuở bắt đầu  suy tư trứớc trang giấy trắng của nhà văn Nhật Tiến.

Với một người đọc như tôi, tuổi đã qua sáu mươi gần bảy chục thì Hà Nội là một nơi chốn chỉ có trong tưởng tượng. Học hành, sinh sống và trưởng thành ở Sài Gòn nên thành phố sinh trưởng của mình ở miền Bắc là một trời đầy lãng mạn và thơ mộng theo suy tưởng của mình. Những địa danh chỉ nghe nói đến cũng đã rung động dùtrong ký ức  mù mờ của một cậu bé con khi lớn lên đọc trong sách vở để nghĩ về và tưởng đến. Đọc Hành Trình Chữ Nghĩa,  Một Thời Như Thế, tôi như trở lại một thời xa xưa lắm chỉ có trong trí tưởng. Thời cuộc đã tạo ra cho người dân Hà Nội biết bao nhiêu là  biển dâu dâu biển. Những ngày thành phố bị thả bom trong thế chiến thứ hai trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh rồi cuộc đảo chính của Việt Minh tới  cuộc kháng chiến chống Pháp để rồi tản cư, hồi cư  đến những ngày Hà Nội dưới chính thể quốc gia trước khi  có cuộc di cư vào Nam. Có lẽ đó là những ngày không quên của nhà văn Nhật Tiến nhưng cũng tạo cho tôi những ấn tượng sâu sắc và hiểu biết thêm về nơi chốn là sinh quán của mình. Một quê hương trong trí nhớ và tưởng tượng.

Qua hồi ức , ông kể lại những ngày xa xưa ấy, của Hà Nội của quê hương tưởng nhớ:” Hà Nội năm 1947 ngày tôi trở lại- hãy còn nhiều chỗ vẫn mang dấu vết của tàn than và những cái cột nhà cháy. Mọi người lớn di chuyển đều phải xài loại giấy tùy thân do Pháp cấp, gọi là giấy Laissez-Passer. Lính Pháp da đen, người Phi Châu đầy nhan nhản. Họ đứng gác ở các công sở, họ kiểm tra giấy tờ ra vào thành phố ở các cửa ô. Hà Nội như con bệnh vừa hồi sinh hãy còn thoi thóp thở và tất nhiên là vắng người.

Nhưng chỉ hơn một năm sau, mọi sự được phục hồi nhanh chóng. Tiếng xe điện leng keng đã bắt đầu rộn rã. Người hồi cư trở về buôn bán tấp nập. Nhiều trường học đã mở cửa trở lại. Chỉ trong vòng 5 năm sau đó, cho đến 1952, 1953 thì mọi sinh hoạt đã trở lại bình thường.

Hà Nội đã xuất hiện nhiều tiệm sách với khung cửa kính sáng choang bên trong đầy ắp sách báo mới ra chen giữa những văn phòng phẩm đủ loại thứ nào thứ ấy mới tinh và đầy sức quyến rũ như tập vở học sinh in hình Shirley Temple, bút máy Kaolo vỏ ngoài là bút  máy nhưng bên trong thì chỉ cắm ngòi bút phải chấm mực. loại bút máy thứ thiệt như Wearever, Pilot, Chatodo thì phải mãi sau này khoảng năm 1952, 1953 mới có…”

Đọc đến đây tôi lại nhớ đến ấu thơ của tôi, học mẫu giáo với mũ nồi ,áo len đan, quần soóc đi qua  tiệm sách Bình Minh ở góc đường Trần  Quốc Toản và Phố Huế nhìn say mê những quyển sách đầy màu sắc trong tủ kính. Cậu bé ấy là tôi  mà mấy chục năm qua chưa thể nào quên hình ảnh của chính mình lúc ấy khi  đứng ngẩn nhìn theo chuyến tàu điện chuông kêu leng keng đi qua hay cảm giác tê điếng của miếng sấu dầm chua ngọt trong miệng…

Nhà văn Nhật Tiến viết tiếp :” Tuy nhiên điều mà chúng tôi say mê nhất không phải là những thứ văn phòng phẩm đắt tiền dù chúng tôi cũng chẳng bao giờ ước ao mà chính là những cuốn sách mới ra vào thời kỳ đó. Đó là những tác phẩm của các nhà văn đương thời như Ngọc Giao với Quán Gió, Cầu Sương; Hà Bỉnh Trung với Răng Đen Ai Nhuộm Cho Mình; Triều Đẩu với Trên Vỉa Hè Hà Nội; Hồ Hữu Tường với Thu Hương, Chị Tập, Phi Lạc Sang Tàu; Mộng Sơn với Vượt Cạn; Linh Bảo với Gió Bấc; Hoàng Công Khanh với Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu, Trại Tân Bồi; Sao Mai với  Nhìn Xuống…Và còn nhiều tác giả khác nữa như Văn Thuật, Thy Thy Tống Ngọc, Nguyễn Minh Lang, Thanh Nam, Huy Sơn, Thế Phong…”

Trong thời điểm những năm trước ngày di cư năm 1954 ở Hà Nội, tác giả Hành Trình Chữ Nghĩa đã phác họa những sinh hoạt văn học báo chí với các nhật báo, tạp chí và các tác giả nổi tiếng thời đó. Thí dụ như  vài nét sơ lược về tạp chí Đời Mới:”Đây là một tạp chí ra hàng tuần khuôn khổ giống như tờ Newsweek bây giờ. Bìa giấy trắng láng in hai màu đen và đỏ và không bao giờ đi ra ngoài hai màu này. Chủ nhiệm báo Đời Mới khoảng giữa thập niên 1959 là ông Trần Văn Aân. Chủ bút là Hà Việt Phương, một bút hiệu của nhà văn Nguyễn Đ ức Quỳnh thuộc khuynh hướng Đệ Tứ và cũng là thân phụ của nhà báo Duy Sinh sau này. Tổng thư ký tòa soạn báo Đời Mới là ông Tế Xuyên có người phụ tá đắc lực là kịch tác gia Minh Đăng Khánh mà thật không ngờ sau khi di cư vào Nam tôi được Minh Đăng Khánh coi như một trong những người bạn thân thiết của ông.

Phải nói là bọn văn nghệ lau nhau chúng tôi mê nhất là tờ Đời Mới. Hễ anh nào có bài được in trên Đời Mới dù chỉ là một bài thơ ngắn ngủi thì cũng được nhìn với ánh mắt kiêng nể như là một thi sĩ thứ thiệt” có tác phẩm in trên Đời Mới “ hẳn hoi”.

Có những nhà “ văn nghệ lau nhau” thuở đó sau này đã thành những nhà văn nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam như Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Song Hồ…Và sau này như một vòng sinh hóa, cũng có nhiều người tuổi trẻ ôm ấp mộng văn chương y hệt như những người đi trước. Văn học  ở hải ngoại cũng có những bước chân khơỉ đầu như thế…

Tôi thích bài viết về những tiệm sách cũ đã làm tôi nhiều cảm khái và liên tưởng như bài viết ở thời điểm Sài Gòn năm 1973. Với tôi, suốt cả tuổi thơ ở trung học, tôi đã giành dụm từng đồng tiền ăn sáng hoặc tiền xe buýt để lang thang vào các tiệm sách cũ bán “sách sold” để mua về những quyển sách mở ra cho tôi những phương trời cao rộng của mơ  và mộng. Đủ những loại sách, thượng vàng hạ cám có mặt, từ những tạp chí khó nhai đối với tuổi thơ như Quê Hương, Nghiên Cứu Hành Chánh,… đến những tạp chí văn nghệ như Văn hóa Ngày Nay, Tân Phong, Bách Khoa , Văn,  đến Thời Nay, Phổ Thông…Tôi mua về và đọc tuốt. Rồi truyện, rồi thơ, dòng dã trong bao nhiêu năm tôi đã có một tủ sách kha khá trước khi vào lính. Với một cậu học trò nghèo như tôi, những cuốn sách cũ tôi mua được có khi là người bạn thân thiết  mà cũng là những người thầy gần gũi. Qua những trang giấy, tôi như thấy được cả một cuộc sống chảy theo với tất cả nỗi niềm thương mến yêu đời. Bây giờ, ở vào tuổi sắp già, đọc lại  bài viết của nhà văn Nhật Tiến, tự nhiên có nhiều cảm khái dù có khi tự hỏi. Sách vở ơi! có còn tồn tại không giữa thời buổi internet này?

Yêu sách nên tôi cũng có nhiều cảm tình với những người làm ra quyển sách, những nhà xuất bản. Một người tôi cho là yêu sách một  cách tuyệt vời là ông Khai Trí. Nhà văn Nhật Tiến đã nhắc đến ông như một người tận tụy với chữ nghĩa và quan tâm đặc biệt đến tuổi thơ qua vai trò chủ nhiệm tuầnbáo Thiếu Nhi, một tờ báo giải trí và giáo dục đã một thời góp phần vào công cuộc phục vụ độc giả thiếu nhi ở miền Nam  trước năm 1975. sau khi Cộng Sản chiếm được miền Nam, ông  bị chế độ mới bắt giam vô tù và cả sản nghiệp bị tịch thu trong đó có cả một kho sách khổng lồ và một thư viện tàng trữ nhiều sách vở quý hiếm. Sau khi được thả ông vẫn nuôi mộng tái lập nhà xuất bản ngay cả khi ra sống ở hải ngoại nhưng vì thời thế đã đổi nhưng ước vọng không thành. Ông trở về quê nhà và chết  năm 2005.

Nhà văn Nhật Tiến với bản tính thẳng thắn cũng đề cập tới những” con buôn sách vở“ đã in  ở hải ngoại hầu như tất cả các loại sách của 20 năm văn học miền Nam. Có lẽ, nhờ đó  mà nền văn học  bị bức tử này qua những chiến dịch đốt sách bắt bớ giam cầm văn nghệ sĩ ở trong nước còn tồn tại ở hải ngoại. Nhưng trên phương diện công bằng, những “ con buôn sách vở” phải trả lại những công trình tim óc của các văn nghệ sĩ còn ở quê nhà hay đã sang sinh sống ở Hoa Kỳ một cách tương xứng. Không thể có sự trí trá giữa trả tượng trưng vài trăm bạc hay một gói quà và sự thanh toán tiền bản quyền. Nhà văn Nhật Tiến nêu rõ trường hợp của giám đốc nhà xuất bản Đại Nam đã công bố bức thư kể lể rằng đã hưởng ứng lời kêu gọi của HộiVăn Bút và đã gửi về Việt nam 200 đô la cho nhà văn Phan Nhật Nam,200 đô la cho nhà văn DuyênAnh, và 8 gói quà cho các nhà văn Tô Ngọc, Vũ Bằng, Nguyễn Thị Hoàng, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Thị Vinh, bà Đinh Thị Thục Oanh( vợ thi sĩ Vũ Hoàng Chương) và bà Đỗ Thị Hải( vợ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn) coi như là một cách trả tiền nhuận bút cho những tác phẩm mà nhà xuất bản này đã in bằng một giá rẻ mạt. Phong cách ấy nhà văn Nhật Tiến đã phẫn nộ gọi là “ bần tiện và trí trá”khiến nhiều nhà văn trong nước như nhà văn Toan Aùnh , nhà thơ Bàng Bá Lân đã gửi thư ra hải ngoại khẳng định: tôi không xin xỏ bất cứ ai. Tôi chỉ đòi hỏi sự công bằng.” Chuyện xảy ra đã hơn ba chục năm, không biết  cái ông giám đốc nhà xuất bản ấy còn sống để hưởng những đồng tiền bất chính không hay phải chịu lẽ trả vay của trời đất?

Đó là với những nhà văn ở trong nước, còn những tác giả  đang sống ở hải ngoại thì cũng bị đối xử hỗn xược  và ngạo mạn khi đến đòi tiền bản quyền những cuốn sách bị in vô tội vạ. Chính tôi đã chứng kiến một  bác sĩ lớn tuổi đến tiệm sách để hỏi về tiền tác quyền của  ba bốn cuốn sách của ông đã bị nhà xuất bản này in lậu thì được một  ông “ giám đốc con” thách thức rằng ông ta không biết tác giả này là ai cả còn muốn đòi tiền bản quyền thì cứ đi kiện đi! Và trong nhiều trường hợp khác thì ông trả lời muốn xin thì ông cho chứ đòi thì ông không trả. Hiện tại, nghe đâu ông về Việt Nam in một cuốn hồi ký và chỉ quảng cáo ở trong nước còn ở hải ngoại thì không thấy tăm hơi. Không biết ông có khoe khoang trong cuốn hồi ký này thành tích không sòng phẳng không trả tiền những tác phẩm tim óc của các nhà văn nhà thơ không?

Trong tác phẩm Hành Trình Chữ Nghĩa tập 3 này còn có cuộc trao dổi thư từ khá lý thú giữa nhà văn Nguyễn Đình Chính, con trai nhà văn Nguyễn Đình Thi và nhà văn Nhật Tiến. Khởi đầu từ bài phỏng vấn của  Dinh Bá Anh trên trang mạng Talawas với Nguyễn Đình Chính khi ông này cho rằng phong trào  Nhân Văn Giai Phẩm 1 956 và vụ văn nghệ đổi mới năm 1990 :” ẩn dấu bên dưới là những âm mưu, những đầu cơ vốn liếng chính trị cá nhân để tự bảo vệ mình nhằm tranh giành quyền lực ở văn nghệ và cũng ở một nơi khác ngoai văn nghệ. Đám anh em văn nghệ sĩ chỉ là những quân bài, những bung xung bị đem ra thí tốt.” Cũng như Nguyễn Đình Chính cho rằng:”Nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm miệng ăn tiền, ngồi quay mặt vào tường mà viết văn thì mới là nhà văn lớn, mới là nhà văn khôn ngoan biết điều” và “ những ai e sợ các nhà văn sẽ nổi loạn thì hãy yên tâm. Còn những ai hy vọng các nhà văn việt Nam sẽ nổi loạn thì tôi thành thật khuyên các vị hãy tự mình dập tắt niềm hy vọng đó đi .Dã tràng xe cát biển Đông mà thôi”

Nhà văn Nhật Tiến không đồng ý với phát biểu ấy và đã thư qua thư lại để thảo luận vấn đề trên. Tuy là nhân dịp để thẳng thắn nói với nhau nỗi niềm tâm sự riêng nhưng xem ra cuộc thảo luận vẫn chỉ là để độc giả thấy sự thực  của  cái gọi là  văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ra sao và nhà văn đã phải chọn lựa thái độ thế nào để tồn tại. Thư của nhà văn Nhật Tiến thì thẳng thắn nghiêm trang trong khi thư trả lời của Nguyễn Đình Chính thì có một chút khinh bạc mỉa mai  khi đề cập đến những sự việc đã xảy ra với nền văn học ở trong nước…

Với tư cách của một người đọc, bộ sách Hành Trình Chữ Nghĩa với riêng tôi như là một chút “ của tin còn lại chút này làm ghi”. Ở tuổi tác gần tám mươi mà xem ra nhà văn Nhật Tiến vẫn còn chất lửa ở đời sống văn chương của ông. In những cuốn sách , có phải là bước quay về nhìn lại thời đã qua và gửi đến tương lai những điều muốn ngỏ…

Nguyễn Mạnh Trinh