” … Thế giới tiểu thuyết của Nhật Tiến (sinh ngày 24-8-1936 tại Hà-Nội) có hai đặc điểm chung: một thế giới của những con người bất hạnh và một không gian của nhân phẩm, con người! Tác giả của chúng là một con người đầy lòng nhân ái và ông muốn mọi người chia xẻ cái nhìn của ông! Trước 1975, ông đã xuất bản 19 tác phẩm gồm 11 tiểu thuyết hoặc truyện dài: Những Người Áo Trắng (1959), Những Vì Sao Lạc (1960), Thềm Hoang (1961), Mây Hoàng Hôn (1962), Chuyện Bé Phượng (1964), Vách Đá Cheo Leo (1965), Tay Ngọc (1968), Giấc Ngủ Chập Chờn (1969), Đóa Hồng Gai, Lá Chúc Thư (1969), Quê Nhà Yêu Dấu (1970); ba tập truyện ngắn: Ánh Sáng Công Viên (1963), Giọt Lệ Đen (1968) và Tặng Phẩm Của Dòng Sông; một tiểu thuyết kịch: Người Kéo Màn (1962); một tiểu thuyết dưới hình thức nhật ký: Chim Hót Trong Lồng (1966, đăng Văn số 1, 1-1-1964), một hồi ký viết cho thiếu nhi: Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (1973, tb Westminster CA: Huyền Trân, 2013) và ba truyện cho thiếu nhi mỗi truyện từ 30 đến 40 trang: Đường Lên Núi Thiên Mã, Quà Giáng Sinh (1970), Theo Gió Ngàn Bay (1970), Săn Trong Thành Phố, Lá Chúc Thư. Giai đoạn đầu tác phẩm ông do các nhà Phượng Giang, Đời Nay và Ngày Nay của Tự-Lực văn-đoàn xuất bản, về sau do nhà xuất bản Huyền Trân (1959-) của ông và nhà văn phu nhân Phương Khanh. Ông từng làm chủ bút tạp chí Thiếu Nhi (1971-1975) do nhà Khai Trí xuất-bản và cộng tác với các tạp-chí Văn-Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Đông Phương, Văn, Bách Khoa, Văn Học,… Nhà văn Nhật Tiến từng là Phó Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Việt-Nam và là Hội viên Hội Đồng Văn Hoa Giao Dục Việt Nam Cộng Hòa (nhiệm kỳ II, 1974).
Nhà văn của tuổi thơ bất hạnh
Nhật Tiến khởi đầu sự nghiệp viết văn với những đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện, một thế giới trầm lặng, có thể nhàm chán đơn điệu đối với những người ở ngoài, bên cạnh những bà Phước, nhưng qua ngòi bút của Nhật Tiến, người đọc khám phá con người, tâm lý, hoàn cảnh, nếp sống của những đứa trẻ mồ côi, những học sinh nội trú và cả những vị tu hành. Đó là Những Người Áo Trắng , Những Vì Sao Lạc, Tay Ngọc, Chuyện Bé Phượng, Chim Hót Trong Lồng,…
Những Người Áo Trắng là chuyện của Quỳnh, một nữ tu trẻ. Từ thân phận mồ côi, được thương giúp, Quỳnh đã trở nên nữ tu để thương lại những đứa trẻ cùng phần số hẩm hiu. Quỳnh đã đưa lên trang giấy thế giới đó. Thể loại bút ký đưa người đọc đến với những đứa trẻ, đến với một thế giới đằng sau bức tường kín cổng, ngoài kia là cuộc đời, là sự sống; trong nầy là một sức sống khác, sức sống tinh thần. Con đường đưa Quỳnh đến với đời sống tu hành đã phải qua nhiều chặng đường. Nàng đã nhìn thấy những đứa bạn chỉ vì muốn thoát ly đã phải chết như Hoà, chịu nghiệt ngã như Liễu. Đã theo đường tu hành, nhưng tim nàng đã có lúc xúc cảm mạnh vì tình yêu dù đơn phương với một sinh viên đeo kính gặp ở vườn hoa – tình yêu ở Nhật Tiến nói chung có thể mãnh liệt trong lòng nhân vật chứ tác giả không chi tiết dài dòng! Và khi đã tận hiến cuộc đời cho Chúa và những đứa trẻ cùng số phận, nàng cũng đã phải chịu sự đố kỵ đôi khi nghiệt ngả của một số đồng tu. Chỉ vì nàng thương trẻ, qua Phượng, qua Lucie, với một tình đồng cảm…
…
Nhà văn xã hội
Chiến tranh khiến cho người nghèo càng nghèo khó hơn, càng thêm trẻ bụi đời, mồ côi, Nhật Tiến ghi lại trong Giấc Ngủ Chập Chờn, Giọt Lệ Đen, Quê Nhà Yêu Dấu,… Nhân vật của Nhật Tiến rời mái ấm cô nhi, trường các dì phước, trở thành những người nghèo khó vật chất cũng như tinh thần. Thềm Hoang, Giải văn chương toàn quốc 1962, viết về một thế giới người nghèo ở Xóm Cỏ, một xóm cận biên ở thủ đô Sài-Gòn mà cũng có thể ở một nơi khác. “Dạo ấy dân xóm Cỏ làm đủ mọi nghề của một tầng lớp thấp kém” (2). Nơi đó có đủ mọi hạng người, đĩ điếm, đạp xích lô, thông cầu tiêu, bán hàng rong, ăn xin, v.v. Một sống chung với những thói hư tật xấu, với lòng ngay và tình đùm bọc khi hoạn nạn. Một mối tình vô vọng nhưng chân thật của bác Tốn mù hát rong xin ăn với cô Huệ gái giang hồ: “Cô Huệ ơi… Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng / Tôi mua ô tô cho cô ngự, mua váy đầm cho cô thay”. Nhưng cô Huệ sẽ chết thảm, bác Tốn chung tình tự đứng ra lo cho đứa con lai có với lính Tây lê dương. U Tám cũng chết buồn thảm, mụ Nết thì trở thành điên cuồng vì con cháu. Những thằng Ích, cái Ngoan, cái Hòn,… lêu lỗng. Chuyện tình đơn sơ dễ tính của Hai Hào đạp xích lô với Đào con Phó Ngữ. Năm Trà qua Lào làm ăn trở về mất vợ mất con, mẹ điên, hắn lên cơn đốt nhà không ngờ cháy tan rụi cả xóm! Cơn mưa to ở cuối truyện phải chăng đã đến như hy vọng quét sạch những tàn tích của tội lỗi lẫn khó nghèo? Xóm Cỏ sống động dưới ngòi bút Nhật Tiến, tình người, nếp sống linh hoạt không ngừng biến cố, diễn tiến. Khi nói đến những vấn-đề xã hội là đã ngầm chứa đòi hỏi công bằng, Nhật Tiến làm kẻ quan sát và ông tỏ ra có tài trong công việc này, cả rành tâm lý. Tả sự cô độc của bác Tốn mù, một lần bác ôm đàn ngồi ở bực cửa hát chờ cô Huệ đi ngang qua: “Bóng tối vây quanh như nỗi cô độc của bác trong sự mù lòa” (tr. 28). Lúc khác bác nghêu ngao hát cho mọi người nghe cười cho vui. “Tiếng cười của họ khiến bác nghĩ rằng mình không cô độc” (tr. 29). Tiếng cười của một nhân vật khác, dượng Tám, thời tán u Tám thì “tiếng cười lỗ mãng và ngay thẳng. Vì thế u tìm thấy ở dượng cái vẻ gì gọi là chất phác, đáng yêu” (tr. 33). Nhưng khi đã về với nhau thì chỉ có tiếng hét, la mắng, vòi tiền, lừa gạt! Cảnh lão Phó Ngữ gây với Đào, con gái lão, đã dám thất thân với Hai Hào đạp xích lô, rồi đến bàn chuyện đám cưới, cũng như những cảnh đú đởn tình từ của đôi nhân tình này, là những bức tranh thật linh động!…
….
Hướng về dân tộc và tương lai
Cả sự nghiệp viết văn, Nhật Tiến luôn tin tưởng nơi con người, dù đó là đứa trẻ mồ côi, trẻ đánh giày, người đạp xích lô, hay một nữ tu, một trí thức, nhà văn,… Nhân vật của ông dù tuổi đời, hoàn cảnh, địa vị xã hội khác nhau nhưng tất cả đều có một niềm tin hoặc lạc quan nơi tình người và những giá trị nhân bản. Tâm hồn nhân ái của Nhật Tiến hướng thượng, tin ở đấng toàn năng sáng tạo vũ trụ hoặc có liên hệ nhân quả với con người ở trần thế. Niềm tin này mãnh liệt, bền vững. Với một cái nhìn tinh đời, hiểu biết nhưng không tàn độc.
Nhật Tiến có một ngôn ngữ trong sáng, rõ rệt, như tiếp thừa văn phong của Tự-Lực văn-đoàn – các tác phẩm đầu của Nhật Tiến được các nhà Phượng Giang, Đời Nay và Ngày Nay của Tự-Lực văn-đoàn xuất bản và ông có nhiều truyện đăng trên giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay. Một lòng chân thành, với cái nhìn tinh tế, thâu suốt. Với ngôn ngữ đó, một lối hành văn đó, dù để thả hồn nhung nhớ một thời ấu thơ hay biện hộ quan điểm xã hội cấp tiến của nhà văn. Văn Nhật Tiến hiền, kết thúc vui, lạc quan hoặc tránh nói đến cái bi đát thường dễ xảy ra, và ở những cảnh tả phụ nữ, tác giả tránh đi sâu vào chi tiết sắc đẹp thể chất, hình như người nữ “hấp dẫn” nhất dưới ngòi bút của ông là chị Sinh trong truyện Kẻ Nổi Dậy (“cả một nửa người trắng như sữa”, “sức nóng như muốn làm nổ tung bộ ngực đầy đặn căng lên như hai cái bình sứ”, “bộ ngực của chị dính sát vào những khoảng áo ướt sũng, căng tròn như hai cái cóng sứ”). Trong các tác phẩm đã xuất bản của Nhật Tiến, người đọc tìm thấy những vấn-đề lớn nhỏ của xã hội Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, nhưng sẽ không tìm thấy dấu vết của những trào lưu thời thượng như hiện sinh, Tiểu thuyết mới, cả những phân-tâm mà Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Duy Lam đã thử nghiệm. Nhật Tiến khởi nghiệp với những trẻ mồ côi, nói lên tấm lòng của ông đối với những đưa trẻ bất hạnh, trong cái bất hạnh chung! Giới văn-nghệ cũng được ông hơn một lần đưa vào tác-phẩm như nhân-vật Tân và Vũ trong Vách Đá Cheo Leo. Những bước tư tưởng của Nhật Tiến chứng tỏ thêm một điều rằng nghệ thuật phải đi một nhịp với thời đại, và nếu được vậy nghệ thuật mới có thể sống lâu!…”
NGUYỄN VY KHANH
[Văn Học Miền Nam 1954-1975 Quyển Hạ; Nhân Ảnh tb, 2019, tr. 1332-1338]