Vietstream Phỏng Vấn Nhà Văn Nhật Tiến Về Bộ Môn Kịch Trong Những Sáng Tác Của Ông

NhinNhungBenBoDuyenAnh

 

Vietstream (VS): Thưa bác Nhật Tiến, nhìn vào toàn bộ những sáng tác của  bác hẳn ai cũng đều coi bác là một nhà văn. Thế nhưng, trong tác phẩm “Nhìn Lại Những Bến Bờ” của nhà văn Duyên Anh, ở chương đầu khi nhớ lại thuở mới bước vào làng văn, ông có viết một câu rằng : “….Thằng Luyến hại tôi. Nó phong tôi tước vị nhà văn ! Tôi mà là nhà văn ư ? Tôi đang chép văn của thiên hạ dài tay ra thì có. Ông Nhật Tiến ơi, ông viết kịch ngắn năm bao nhiêu tuổi ? Tôi đã chép trọn vẹn vở kịch của ông đăng hai kỳ trên nhật báo Giang Sơn trang nhất đấy. Tên vở kịch tôi quên rồi. Chắc ông chưa quên đâu nhỉ ? ”  Không biết bác còn nhớ những chuyện này không ?

Nhật Tiến (NT) : Nhà văn Duyên Anh khi viết cuốn đó đã có nhã ‎‎ý nhắc đến tôi, nhưng thật ra chúng tôi cùng một lứa tuổi mà cả hai cũng đều mới chập chững bước vào làng văn cả.

VS : Nhưng chuyện đó cho thấy bác khởi sự bước đầu trong lãnh vực văn chương là sáng tác kịch, phải không ? ‎

NT. Ui, viết kịch là rất khó. Khó ở những nút thắt mở, khó ở những tình tiết, ở sự điều động các nhân vật ra, vô hợp lý trên sân khấu. Và dĩ nhiên người viết phải nắm thật vững tâm lý, cử chỉ, ngôn ngữ của các nhân vật. Hơn nữa, không gian của vở kịch phải là cái hiện tại đang xẩy ra trước mắt khán giả, nhưng qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật, khán giả sẽ thấu hiểu được tình huống của câu chuyện, tức là quá khứ được phục hồi. Và trong những tình huống đó lại chứa chất những khúc mắc, những vấn đề nan giải bầy ra cho người trong cuộc buộc họ phải giải quyết (có sự tham gia suy nghĩ của khán giả) để rồi đi tới tương lai là hồi kết thúc lúc hạ màn. Giới viết kịch gọi cái phút chót hạ màn này là “Coup de Rideau”, nó cần phải có tính bất ngờ, gây ngạc nhiên thích thú và cả sự đồng tình, tán thưởng của khán giả. Kịch phải như thế thì mới được gọi là thành công. Những vở kịch của tôi được sáng tác vào những năm 1953, 1954 thực ra không thể theo bén gót tính cách nghệ thuật như kể trên mà hầu hết chỉ là những vở kịch vui khơi nguồn từ những năm tôi sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo.

VS.- Ủa, trong sinh hoạt Hướng Đạo cũng có cả môn viết Kịch sao ?

NT. Không phải viết mà diễn kịch. Kịch diễn ở lửa trại ấy mà.

VS. Kịch lửa trại thì có gì khác ?

NT. Khác nhiều lắm chứ. Kịch Lửa Trại là những vở kịch không bao giờ được soạn trước. Nó chỉ được hình thành rất vội vã trước khi đem ra trình diễn trước khán giả vốn cũng là những Hướng Đạo Sinh đang ngồi chật cứng chung quanh lửa trại. Thông thường, nếu là trại Đoàn gồm 4 Đội thì mỗi Đội phải trình diễn một vở kịch theo một chủ đề như HĐS làm việc thiện chẳng hạn, mà anh Đoàn trưởng chỉ cho biết trước có …15 phút. Trong 15 phút phù du đó, chúng tôi phải chế ra một vở kịch theo chủ đề đã cho, rồi phân vai, rồi dặn nhau vội vã là hãy nói theo “như vầy, như vầy” để cho kịp thì giờ nhào ra trình diễn. Dĩ nhiên là một vở kịch như thế thì chẳng có chút nghệ thuật nào, nhưng nó tạo cho diễn viên một trí óc nhậy bén, biết vận dụng hết mức đầu óc sáng tạo cùng với một tinh thần nhanh nhẹn, tháo vát, biến báo, linh hoạt. Và khi trình diễn, vì những “lỗ hổng” trong nội dung vở kịch, vì những cử chỉ luống cuống, ngây ngô của diễn viên khi anh nọ nháy nhó nhắc anh kia phát ngôn khiến người coi cứ cười bò lăn làm tăng phần vui nhộn cho đêm lửa trại. Là một Đội trưởng trong 4 đội của Đoàn, tôi đã nhiều “phen” sáng tác kịch trong tình trạng ngặt nghèo như thế, nhưng chính điều đó đã giúp tôi rất nhiều trong việc viết kịch sau này để có nhiều vở kịch vui được đăng trên các tờ Cải Tạo, Giang Sơn và một vài Giai Phẩm Xuân Năm Giáp Ngọ và Ất Mùi trong thời gian 1952 đến giữa 1954.

VS . Chắc đó là tới thời gian bác di cư vào Nam, sau Hiệp định Genève tháng 7-1954.

NT. Đúng vậy. Vì có người thân phục vụ trong Ngự Lâm Quân ở Đà Lạt, hồi đó còn gọi là Hoàng Triều Cương Thổ, nên tôi chọn nơi này để định cư trước tiên và tại đây tôi nhận lời cộng tác với Ban Văn Nghệ Ngự Lâm Quân trong việc sáng tác những vở kịch truyền thanh trên Đài phát thanh riêng của binh chủng này. Một trong những diễn viên đã trình diễn những vở kịch do tôi sáng tác trong thời kỳ đó là anh Đặng văn Dư, vốn là thân phụ của nhà văn Đặng Thơ Thơ sau này. Anh Dư hiện đang cư ngụ ở Orange County, Nam Cali.

VS.  Vậy là bác định cư ở Đà Lạt chứ không phải Sài Gòn.

NT. Không. Tôi chỉ ở Đà Lạt được gần một năm thì di chuyển về Sài Gòn, sau lại xuống các tỉnh miền Nam như Mỹ Tho, Bến Tre để theo đuổi nghề dạy học. Cũng chính tại đây tôi đã gặp Trương Cam Vĩnh là em ruột của anh Trương Bảo Sơn, một đồng chí của nhà văn Nhất Linh và tôi được biết nhà văn Nhất Linh vẫn đang chủ trương nhà xuất bản Phượng Giang (từng in truyện của Nguyễn thị Vinh và Linh Bảo) lại cũng đang rục rịch chuẩn bị cho ra mắt tờ Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay.

Rồi bầu không khí trù phú, an bình của xứ dừa Mỹ Tho, Bến Tre ở những năm cuối thập niên 50’s đã không còn thích hợp cho việc soạn kịch, lại thêm nỗi buồn và nhớ những ngày tháng êm đềm của Hà Nội năm xưa nên tôi bỏ viết kịch để ngồi sáng tác văn chương. Truyện dài đầu tay của tôi, cuốn Những Người Áo Trắng được hoàn tất vào mùa Thu năm 1957 là ở trong hoàn cảnh đó. Rồi cứ theo đà, tôi viết tiếp Mây Hoàng Hôn, Những Vì Sao Lạc, Ánh Sáng Công Viên, Thềm Hoang  …mà quên bẵng đi lãnh vực văn nghệ đầu đời của tôi là Kịch.

VS .- Nghĩa là bác giã từ ngành Kịch kể từ đó.

NT. Không hẳn là như thế. Việc soạn kịch đối với tôi hầu như là một cái duyên nghiệp ràng buộc khó bỏ. Từ năm 1960, tôi rời mấy tỉnh miền Nam để về dạy học tại một số tư thục ở Sài Gòn và đây là một dịp để tôi tham gia trở lại sinh hoạt Hướng Đạo, làm Toán Trưởng Toán Vân Đồn thuộc Tráng Đoàn Bạch Đằng do anh Trần Trung Du (mất ngày 13-3-2000) làm Tráng Trưởng. Rồi cũng vào năm 1960 đó, miền Tây có bão lụt nặng nề, Tráng đoàn Bạch Đằng có tổ chức một đêm văn nghệ ở Rạp Thống Nhất Sài Gòn để lấy tiền cứu trợ. Trong dịp này, anh Tráng Trưởng đã yêu cầu viết cho Tráng Đoàn một vở kịch để trình diễn. Thế là tôi lại quay về với sở trường cũ của mình để viết vở kịch ba màn có tên là Cơn Giông do chính các nam nữ Tráng sinh Hướng Đạo trình diễn. Luật sư Trần Sơn Hà hiện cư ngụ ở Quận Cam, Nam Cali cũng đã là một trong những diễn viên của vở kịch này.

VS . Ngoài vở kịch ấy, bác có còn sáng tác thêm vở nào khác nữa không ?

NT. Có một vở kịch khác, chỉ một màn tên là Bên Bờ Vực vốn được in trên tạp chí Văn của anh Trần Phong Giao vào khoảng năm nào tôi không còn nhớ, sau được anh chị em sinh viên Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ trình diễn trên sân khấu của Trường Quốc Gia Âm Nhạc ở Sài Gòn. Nội dung vở kịch diễn tả tâm trạng của giới trẻ trước nhiều nghịch cảnh xã hội đương thời nên cũng được nhiều anh chị em sinh viên thuộc giới trẻ hoan nghênh.

VS. Thế là bác trở lại với bộ môn Kịch rồi.

NT. Cũng có lúc tôi toan tính vậy. Nhưng rút cục tôi thấy mình chẳng nên quay trở lại. Bởi nhiều l‎ý Trước hết là vào thời kỳ Văn Học Miền Nam nở rộ (thập niên 60-70 của thế kỷ trước), cùng thời sinh hoạt với tôi vốn đã có nhiều ngòi bút soạn kịch nổi tiếng như Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan với những vở như Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa; Thành Cát Tư Hãn, Hậu Trường, Ngộ Nhận , hay Trần Lê Nguyễn vớiQuán Nửa Khuya,Bão Thời Đại , Phan Tùng Mai với Người Giết Tần Cối, Doãn Quốc Sỹ với Trái Cây Đau Khổ, Ngô Xuân Phụng với Ác MộngCon Vật Phi Lý, Tinh Vệ với Bão Loạn, Cơn Lốc, Đinh Thạch Bích với Ái Tình Bôn-sê-vích, Dương Kiền với Sân Khấu..v..v.. Một đội ngũ kịch tác gia với một số vở kịch phong phú như thế, tôi đâu còn dám có ‎ý tưởng chen chân vào.

Ngoài ra còn thêm một l‎ý do không kém phần quan trọng khác là ở miền Nam đã thiếu hẳn một sân khấu thoại kịch đúng nghĩa, trong khi sân khấu dành cho Cải Lương thì lại rất nhiều. Ta cũng có thể nhắc tới sân khấu kịch của Ban Dân Nam với Túy Hoa, Túy Phượng….nhưng hầu hết những vở kịch của Ban này thiên về kịch nói dễ dãi, nhiều chỗ diễn viên tự ‎‎ý “cương” phần đối thoại tuy được khán giả bình dân rất ưa chuộng nhưng không được giới văn nghệ coi là thoại kịch đúng nghĩa. Cho nên, một vở kịch khi được viết ra, đa phần là chỉ để đọc và hiếm hoi được mang trình diễn trên sân khấu. Còn đâu những “mùa kịch” hằng năm như ở Hà Nội ngày xưa, mà ở đó cứ vào mùa Thu khoảng  tháng Chín hay tháng Mười, khi trời bắt đầu se lạnh thì sân khấu Nhà Hát Lớn lại nhộn nhịp với các ban kịch như Tiền Phong, Sông Hồng trình diễn những vở kịch lừng danh như Lôi Vũ, Thế Chiến Quốc, Nửa Đêm Truyền Hịch, Bông Hồng Dại, Bến Nước Ngũ Bồ, Thành Cát Tư Hãn, Tâm Sự Kẻ Sang Tần..v.v..  Lúc đó tiết trời đã vào thu, không khí mát mẻ, người Hà Nội đều ăn bận chỉnh tề trong những bộ quần áo trang nhã, thanh lịch kéo nhau đi xem kịch như đi dự một buổi dạ hội trang trọng nào. Điều này đã gợi nhớ lại bầu không khí Thoại Kịch thời tiền chiến với những vở kịch của các Kịch tác gia như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Đình Long cùng với những ban kịch lừng lẫy một thời như ban kịch Tinh Hoa của Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, ban kịch Hà-nội của nhóm Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng

VS . Vậy là bác rời bỏ viết kịch từ thời đó để chỉ chuyên về ngành Văn.

NT. Ấy, tôi tưởng rằng mình sẽ không còn bao giờ nghĩ đến chuyện viết kịch nữa, nhưng tình hình lại đổi khác kể từ sau Tết Mậu Thân. Từ năm 1969, tôi nhập ngũ và được biệt phái về làm Giảng Viên Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị trực thuộc Cục Chính Huấn thuộc Tổng Cục C.T.C.T. Trung Tâm này trước thì nằm ở đường Đặng Đức Siêu Sài Gòn, sau rời vào Biệt Khu Thủ Đô ở đường Lê văn Duyệt . Những ngày đầu thì Trung Tâm tổ chức các khóa học dành cho các Hạ Sĩ Quan C.T.C.T, sau còn mở thêm các Khóa dành cho các Sĩ Quan Tham Mưu thuộc các Tiểu Khu, Đặc Khu, Chi Khu, và nhiệm vụ sau cùng là tổ chức những khóa huấn luyện dành cho các Sĩ Quan Đại Đội Phó C.T.C.T. thuộc nhiều Quân Binh Chủng VNCH. Nhà văn Hồ Trường An trong cuốn “Những Khuôn Mặt Văn Nghệ” cũng đã viết về Khóa học này sau khi ông tốt nghiệp Khóa 26 trường Bộ Binh Thủ Đức và về thụ huấn khóa huấn luyện ĐĐP/ C.T.C.T này.

VS . Bác làm việc ở đó trong bao lâu?

NT. Cho tới tháng 4-1975. Tính ra, quân trường này đã mở được khoảng trên 20 khóa dành cho các SQ Đại Đội Phó C.T.C.T., mỗi khóa có sĩ số chừng 400 SQ khóa sinh và khóa học kéo dài khoảng từ 3 hay 4 tháng. Cứ mỗi lần mãn khóa, các khóa sinh thường tổ chức một đêm văn nghệ liên hoan có mời cả quan khách dân sự tới tham dự như Ông Giám Đốc nhà sách Khai Trí là người khóa nào cũng yểm trợ những phần thưởng cho các khóa sinh xuất sắc, hay như học giả Hoàng Xuân Việt, nhà văn Nguyễn thị Vinh là những khách thỉnh giảng được mời tới để trình bầy về một vấn đề văn hóa.

Trong dịp này tôi cũng soạn một vài vở kịch để cho các khóa sinh trình diễn, như vở kịch lịch sử một màn có tên Ngọn Cờ Núi Lam nói về cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi  đã cùng Nguyễn Trãi trương ngọn cờ “Thế Thiên Hành Hóa” để chống quân nhà Minh. Một trong  những diễn viên của vở kịch này là Trung Úy kiêm Họa sĩ Vương Nghiêm hiện đang cư ngụ ở Washington DC.

NhinNhungBenBoDuyenAnh

Đã kể lại thì cũng nên kể cho hết. Ngoài những vở kịch trình diễn trên sân khấu, tôi còn sáng tác một kịch bản có hàng trăm diễn viên tham dự được trình diễn trên sân rộng. Đây là một kịch bản minh họa những công tác của một SQ Đại Đội Phó C.T.C.T trước, trong và sau một cuộc hành quân tại những khu vực có dân chúng cư ngụ. Kịch bản được SQ Khóa sinh trình diễn trong nhiều khóa học và đặc biệt nó còn được dàn dựng ngay trên sân vận động Hoa Lư, đường Đinh Tiên Hoàng Sài Gòn với sự tham dự của nhiều quân binh chủng trong Biệt Khu Thủ Đô và huy động đến cả phi cơ trực thăng trong kịch bản. Buổi trình diễn này đặt dưới sự Chủ tọa của Trung tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng TC/CTCCT, có sự tham dự của Đại Tá Cao Đăng Tường Cục Trưởng Cục Chính Huấn và nhiều đại diện các Quân Binh Chủng. Đặc biệt lại còn có sự tham dự của một khách mời danh dự là một Trung Tướng thuộc ngành CTCT của quân đội Trung Hoa Dân Quốc nhân từ Đài Loan qua Sài Gòn công tác.

 VS .- Những chuyện kể trên đều liên quan đến ngành Kịch. Vậy thế còn vấn đề Tiểu Thuyết Kịch thì sao ?

NT. Năm 1962, tôi viết xong cuốn Người Kéo Màn và nhà xuất bản Huyền Trân đã cho in thành sách. Về mặt kỹ thuật thì đây là một thể loại rất gần gũi với Kịch, nhưng lại lồng trong kỹ thuật Tiểu ThuyếtKịch Ảnh, nên tôi đặt tên là Tiểu Thuyết Kịch. Chuyện đặt tên cho thể loại này xem ra không xuông xẻ chút nào. Kịch tác gia Vi Huyền Đắc thì góp ‎‎ý nên gọi là Tiểu Thuyết Đối Thoại. Giáo sư Nguyễn văn Trung của Đại học Văn Khoa thì cho là tôi gây ra  sự lẫn lộn bộ môn, đồng thời xoá bỏ khả năng đặc biệt của các bộ môn bị sát nhập. Ông có yêu cầu tôi giải thích lý‎ do sự lựa chọn này của tôi. Tôi đã trả lời bằng một lá thư khá dài mà sau đó, ông đã cho in trong tác phẩm biên khảo của ông mang tựa đề  Lược khảo văn học, Tập II: ngôn ngữ văn chương và kịch.

ViHuyenDacNhatTien

Bẵng đi nhiều chục năm, tôi không còn nhớ gì về nội dung lá thư đó, thì may thay, nhà phê bình văn học Nguyễn Tà Cúc đã có nhã ‎ý‎ gửi cho tôi một bài báo in trên tờ tuần báo Nghệ Thuật ở Sài Gòn, số 20 ra vào tháng 2- 1966. Bài báo nói trên xuất hiện trong một mục do Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan đảm trách có tên là mục Văn Nghệ và Cuộc Sống. Trong một bài của mục này, Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan có đề cập đến vấn đề Tiểu Thuyết Kịch của tôi. Vietstream có thể in lại bài ấy như sau :

 VanNghe Va Cuoc Song

.        VĂN NGHỆ VÀ CUỘC SỐNG

 Ghi nhận của Vũ Khắc Khoan

 Tôi trở lại một vấn đề đã đặt ra, vẫn còn để lửng, gần đây lại đặt ra trong một cuốn sách của anh Nguyễn văn Trung — Lược khảo văn học, ngôn ngữ văn chương và kịch — Vấn đề là Tiểu thuyết kịch, nhân một tác phẩm của một anh bạn trẻ của tôi, Người Kéo Màn của Nhật Tiến. Số là Người Kéo Màn được viết theo một loại mới, không phải là kịch, không phải là tiểu thuyết, là cả kịch lẫn tiểu thuyết, là tiểu thuyết kịch. Hơn nữa, trong một bức thư gửi Nguyễn văn Trung, bức thư mà Nguyễn văn Trung có trích đăng trong cuốn sách của anh, mà hôm nay tôi xin phép tác giả trích đăng dưới đây— trong bức thư đó Nhật Tiến lại còn nói đến cả việc áp dụng kỹ thuật của phim ảnh trong tác phẩm của anh nữa. Tóm lại, Người Kéo Màn được viết theo một văn loại mới có tính tổng hợp, dung hòa những khả năng đặc biệt của kịch, tiểu thuyết và kỹ thuật của phim ảnh, đồng thời lại cố gắng tránh khỏi những hạn chế riêng biệt của những bộ môn nói trên, nhất là kịch và tiểu thuyết.

Nhật Tiến trình bày quan niệm của mình về cái văn loại mới đó như sau :

(trích)

Trước hết, tôi xin mạn phép anh (anh Nguyễn văn Trung) nhắc qua lại về quan niệm của tôi trước một vài bộ môn văn nghệ. Theo ý tôi, đứng trên phương diện kỹ thuật sáng tác thì  mỗi tác phẩm văn nghệ có một lề lối trình bầy. Mỗi cách trình bầy mang một tên gọi khác nhau. Do đó mới có những bộ môn tiểu thuyết, thơ, kịch, họa, nhạc v..v… Về bộ môn tiểu thuyết tuy có nhiều khuynh hướng, nhưng tất cả đều dựa trên một qui luật căn bản: đó là tác giả dùng thể văn mô tả để diễn tả tâm lý, tâm trạng của các nhân vật. Ở điểm này, tiểu thuyết có một tầm hoạt động rất rộng lớn. Người viết không bị gò bó bởi yếu tố thời gian hay không gian thu hẹp nào. Hơn nữa, để hỗ trợ cho những chi tiết tình cảm của nhân vật được nổi bật, người viết còn có thể lấy ngoại cảnh làm tiết điệu điều hòa, do đó có thêm phương tiện làm tăng thêm phần  hiệu quả của việc gây cảm xúc cho người đọc.

Trái lại, với bộ môn kịch thì khắt khe hơn nhiều. Thời gian, không gian phải là một mẩu sống hiển hiện trước mắt người xem. Qua lời đối thoại của các nhân vật, dĩ vãng được ôn lại, hiện tại vẫn đang tiếp diễn và đồng thời cũng ở đó, những gút thắt mở được sửa soạn cho một tương lai gần gũi, dẫn đến hồi kết cục càng bất ngờ bao nhiêu, càng thú vị bấy nhiêu. Bởi thế, kịch bản phải mang nhiều tình tiết dồn dập, thường thường đó là hồi kết cục của một câu chuyện tích lũy đầy những biến cố đã xảy ra từ trước cái thời gian người viết đem trình diễn với khán giả. Do đó, theo tôi nghĩ, viết kịch khó hơn viết tiểu thuyết nhiều lắm.

Gần đây, theo sự tiến triển của phim ảnh, một vài tác giả có trình bày một vài bản văn hoặc dịch, hoặc sáng tác lấy tên là tiểu thuyết phim. Tôi cũng đã đọc và lĩnh hội được một vài kinh nghiệm về kỹ thuật viết truyện phim. Theo ý tôi, tiểu thuyết phim có cái ưu điểm hơn kịch ở chỗ là có chiều hoạt động rộng rãi như tiểu thuyết (ống kính di chuyển được khắp nơi) nhưng lại có cái khuyết điểm nặng nề là phải đeo theo phần ghi chú kỹ thuật, bắt người đọc vừa phải theo dõi cốt truyện, vừa phải xem cả phần dành cho các chuyên viên khi mang tác phẩm ấy lên màn bạc.

Ở giữa những sự kiện ấy, tôi khởi sự viết thử một tác phẩm lấy tên là tiểu thuyết kịch. Tiểu thuyết kịch được dung hòa cả ba kỹ thuật tiểu thuyết, kịch bản và phim ảnh. Ở trong tiểu thuyết kịch, kỹ thuật viết tiểu thuyết vẫn được duy trì. Người viết có thể dùng loại văn tả cảnh, tả tâm trạng, tâm lý, tả cả cái ý nghĩ nhân vật cũng được nữa. Nhưng xen vào đó, nhiều đoạn trong tác phẩm sẽ trở nên rườm rà, mất hứng thú nếu cứ viết theo giọng văn tiểu thuyết. Để theo kịp những tình tiết sôi nổi trong truyện, tôi xen vào lề lối đối thoại ngắn và gọn của kỹ thuật viết kịch bản. Nhưng có nhiều khi, trong cùng một khoảng thời gian ngắn ngủi, có nhiều sự kiện xảy ra một lúc, ở nhiều chỗ khác nhau. Để diễn tả được trọn vẹn cái đó không gì bằng áp dụng kỹ thuật của phim ảnh. Ngòi bút của người viết không khác gì ống kính của camera man, đưa người đọc qua một mẩu sống ở chỗ này qua một mẩu sống ở chỗ kia, và tất cả những mẩu sống ấy xoáy tròn chung quanh một thời gian nhất định, một sự việc mấu chốt mà người viết định trình bầy với đọc giả.

Tôi còn nhớ, sau khi đọc xong Người Kéo Màn, Kịch tác gia Vi Huyền Đắc có nói với tôi là phải đặt cho nó cái tên là tiểu thuyết đối thoại hơn là dùng chữ tiểu thuyết kịch. Tôi đã suy nghĩ và thấy rằng dùng chữ tiểu thuyết đối thoại cũng không đúng lắm, vì tiểu thuyết nào mà không có đối thoại, cũng như toàn bộ tác phẩm không phải chỉ toàn là đối thoại cả. Vì thế, trong khi chưa tìm được danh từ nào xác đáng hơn, tôi vẫn nghĩ là nên để chữ tiểu thuyết kịch, bởi vì không những ở phần kỹ thuật, tác phẩm mang nhiều kịch tính, mà ngay phần cấu tạo nhân vật, người viết có thể xây dựng những nhân vật rất kịch, nghĩa là méo mó theo sự cố ý của tác giả để làm tăng thêm phần sáng tỏ cái ý định của tác giả định viết ra.

(ngưng trích)

Quan niệm của Nhật Tiến thật đã rõ ràng. Cảm thấy bị gò bó trong bộ môn tiểu thuyết, anh muốn bổ túc nó bằng một vài yếu tố của hai bộ môn khác: kịch và phim ảnh, những yếu tố mà anh nhận thấy có lợi cho sự diễn tả ý tưởng của anh. Quan niệm đó được áp dụng vào việc sáng tạo Người Kéo Màn và dĩ nhiên được đặt thành vấn đề.

Vấn đề mà Nguyễn văn Trung đặt ra và giải quyết trong cuốn sách của anh —Lược khảo văn học, ngôn ngữ văn chương và kịch. Vấn đề mà tôi đặt ra. Để sẽ nêu lên cách giải quyết của Nguyễn văn Trung. Để bàn về cách giải quyết đó và tự hỏi không hiểu có ai góp thêm phần ý kiến.

Vũ Khắc Khoan

           VS . Kể ra thì bác cũng đã trình bầy rõ ràng quan niệm về tiểu thuyết kịch. Tuy nhiên nếu có thể thì xin bác trích cho một đoạn trong cuốn Người Kéo Màn mà bác cho là mang được đầy đủ tính chất của tiểu thuyết kịch mà bác đã diễn tả .

NT– Sẵn sàng ! Và đó là ‎ kiến hay vì  như thế vấn đề sẽ cụ thể hơn là chỉ nói l‎‎ý thuyết.

VS. Xin cám ơn nhà văn Nhật Tiến đã dành cho Vietstream cuộc phỏng vấn này.

  ****

Trích đoạn trong cuốn Người Kéo Màn tiểu thuyết kịch của  Nhật Tiến

KIch 4

…….

                        PHÍA CÁNH GÀ BÊN PHẢI

 

Nhà đạo diễn : Xong chưa? Xong chưa ? Quá mười lăm phút rồi.

Chuyên viên sân khấu : Khổ quá! Còn thiếu đứa bé. Đáng lẽ giờ này thì người đem cho thuê phải bế nó đến rồi.

Nhà đạo diễn: Ồ ! Bò thật ! Thế thì bò thật !

Nhà Mạnh Thường Quân : Tôi nghĩ rằng cái đó là tại ông !

Nhà đạo diễn: Ô hay! Sao lại tại tôi được nhỉ ?

Nhà Mạnh Thường Quân: Đáng lẽ ông phải dự phòng trước một con búp bê thay cho nó, tại sao ông không nghĩ tới từ trước. Ông ỷ y quá.

Nhà đạo diễn: Trời ơi ! Thực là nhục nhã cho giới kịch nghệ nói chung khi mà có một thứ ý kiến dự phòng ấu trĩ như thế được đem ra bàn cãi.

Nhà Mạnh Thường Quân: Thì đấy, bây giờ đứng mà nhìn nhau. Ông là người không biết lo xa gì hết cả. Ở đó mà nói chuyện kịch nghệ.

Nhà đạo diễn: Thế này thì tức thật. Nhiệm vụ của tôi chỉ là phải để tâm đến những việc lớn lao, tại sao ông lại bắt tôi đi vào những tiểu tiết ấy nhỉ.

Nhà Mạnh Thường Quân: Chính những cái tiểu tiết ấy mới là quan trọng đấy ông ạ. Ông đã từng “dạy” tôi như thế mà !

Nhà đạo diễn: A! Ra ông cũng thù dai gớm nhỉ. Nhưng tôi xin nói cho ông biết, quan trọng hay không là ở những người dưới quyền của đạo diễn với nhiệm vụ mà họ đã được giao phó. Họ không làm xong thì là tại họ chứ tại sao ông lại chỉ đổ lên đầu có một mình tôi ! Ông phải biết, đối với những nhà đạo diễn ngoại quốc thì một lệnh là một lệnh! Ra lệnh rồi là kể như xong. Còn người ngợm của ông giao cho tôi…( giơ hai tay lên trời)  Ố.. là.. là…

Nhà Mạnh Thường Quân: Hừ ngoại quốc! Ngoại quốc! Lúc nào ông cũng đem cái “ngoại quốc” của ông ra hù dọa tôi. Ông phải biết là ông đang ở đâu chứ. Ngày nào cũng húp nước mắm mà cứ tơ tưởng đang uống sâm banh ở Paris.

Nhà đạo diễn : Ê ! Này! Tôi nghĩ rằng ông đã đi quá phạm vi của ông rồi đấy nhé. Ông đã dám giẫm chân lên lãnh vực nhận thức của tôi là không có được. Nếu ở địa vị ông thì tôi chỉ biết nhắm mắt bỏ tiền ra và thu tiền vào. Như thế sẽ dễ chịu cho ông hơn.

Nhà Mạnh Thường Quân : Vậy ra ý ông muốn ám chỉ rằng tôi không am hiểu gì về văn nghệ hết phải không ? Thật tôi chưa hề gặp một ai kiêu căng và thiển cận đến như ông cả.

Nhà đạo diễn chưa kịp sửng cồ lên thì một chuyên viên sân khấu đã chạy ào vào, giọng hớt hải.

Chuyên viên sân khấu : Thôi, thôi, thưa các ngài, bây giờ tôi xin các ngài giải quyết cho vấn đề đứa bé. Không có đứa bé thì tôi biết làm sao đây? Hay là …hay là …ta bỏ qua có được không ?

Nhà đạo diễn dẫy nẩy lên như vừa dẫm phải một con rắn sau khi nghe cái lời đề nghị bá láp ấy. Lập tức cơn giận nhà Mạnh Thường Quân còn đang lùng bùng trong đầu, liền được ông ta trút ngay xuống đầu anh chuyên viên.

Nhà đạo diễn:  Cái gì? Ông vừa mở mồm ra nói cái gì? Ông định bỏ cái gì? Bỏ thằng bé ấy hả ? Ông có định xỉ nhục tác giả hay không đấy ?

Chuyên viên sân khấu: Chết nỗi. Sao ông lại gán cho tôi cái ý nghĩ ấy !

Nhà đạo diễn: Hừ ! Tôi không ngờ ở trên đời này lại có kẻ liều lĩnh đến như ông được.

Chuyên viên sân khấu: Vậy thì tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi !

Nhà đạo diễn:(to giọng, quả quyết) Nhân danh đạo diễn, tôi tuyên bố chưa có đứa bé thì chưa được mở màn !

Nhà Mạnh Thường Quân:(càu nhàu) Hừ, sáng tác cái chó gì mà lôi cả trẻ con lên sân khấu. Nào nó có tội tình gì !

Nhà đạo diễn: (Cười rất nhạt)

Nhà Mạnh Thường Quân: Mà cái ông tác giả ấy đã đến cho chưa ?

Chuyên viên sân khấu: Từ chập tối chẳng ai  thấy mặt  ông ấy  đâu cả !

Nhà Mạnh Thường Quân: Con khẹc !

Chuyên viên sân khấu: Chao ôi, nếu ông ấy chịu khó ghé lại một tí thì có phải nhẹ nhõm cho chúng tôi biết bao nhiêu không.

Nhà đạo diễn: Vậy ra tôi không đủ thẩm quyền thay mặt cho ông ấy ở đây hay sao ?

Chuyên viên sân khấu: Tôi xin lỗi ! Tôi không có ý định nói như thế.

Nhà đạo diễn: Tôi tin rằng dù có mặt ở đây thì ông ta cũng không bao giờ chịu thay đổi cái gì đâu.

Nhà Mạnh Thường Quân : Thôi, tôi van các ông, xin các ông lo hộ cho xong cái vụ này đi đã. Không lẽ các ông để cho khán giả ngồi chờ các ông đến sáng hay sao ?

Người lao công: Tôi thấy ở phía nhà sau có tiếng trẻ con khóc. Hay là các ông đi mượn thử coi sao !

Nhà Mạnh Thường Quân : Con khẹc! Có thế mà từ nãy không nói ra.

Người lao công: Thưa cụ, việc ấy đâu phải việc của tôi. Tự dưng tôi chen vào thì lại hóa mắc cái tội nói leo.

Nhà Mạnh Thường Quân: À  ra thế !

 

TRONG CĂN PHÒNG NHÀ DƯỚI

Nhà Mạnh Thường Quân: Trời ơi ! Đúng  rồi ! Tốt rồi !

Người vợ : Cái gì thế, các ông ?

Nhà đạo diễn : Xin phiền bác làm ơn cho tôi mượn đứa bé trong mười lăm phút.

Nhà Mạnh Thường Quân: Thuê ! Tôi thuê đứa bé trong mười lăm phút !

Người vợ: Ông nói cái gì nghe mà lạ tai thế ? Ai đời lại có chuyện mang con đi cho thuê.

Nhà Mạnh Thường Quân: Thì nào có ai ăn thịt nó đâu mà sợ. Chỉ cần nó có mặt trên sân khấu trong ít phút thôi.

Người vợ: Cũng không được! Con tôi mới được có ba tháng.

Đạo diễn : (suýt soa) Úi ! Ba tháng thì lại càng tốt nữa. Vai trò của nó phải như thế mới đúng.

Người vợ : Thôi đi, vác nó lên sân khấu để các ông vần nó đến phát sài lên rồi tôi bắt đền ai ?

Nhà Mạnh Thường Quân: Thì thế người ta mới phải đi thuê.

Người vợ: Thuê với mượn nào có khác gì nhau. Tôi đã bảo không là không.

Người chồng: (tung chăn nhỏm dậy) Sao lại không! Cái con mẹ này lắm nhời ! Các ông cho bao nhiêu?

Nhà Mạnh Thường Quân :Thôi, năm chục đây này, rắc rối mãi !

Người vợ: ( mắt long lên) Tôi cấm các ông mó vào thằng bé này.

Người chồng: Xin các ông cứ bế đi. Nó dở hơi, mặc mẹ nó. Năm chục đâu ?

Nhà Mạnh Thường Quân: Đây ! Tôi trả tiền trước rồi đấy nhé. Không có giấy biên nhận nhưng các ông làm chứng giùm..( dúi tờ giấy bạc vào tay người vợ)

Người vợ:( hất ra) Tôi không thèm lấy! Tôi cũng không cho ai mó vào con tôi !

Người chồng: (quát) Này, có im mẹ nó cái mồm đi không. Bộ tưởng các ông ấy đem ăn thịt mất con à. Bằng ngần ấy mà ngu như con chó.( xông lại giật tờ giấy bạc trên tay nhà Mạnh Thường Quân).

Đạo diễn : Để tôi bế nó lên. Này ông chuyên viên, xin ông tìm cho một cái lót sạch.

Chuyên viên sân khấu: Trên ấy làm gì có tã lót.

Đạo diễn : Ồ ! Sao mà lại “bò” như thế. Kiếm mảnh vải nào mà chẳng được. Nhớ là phải mầu trắng ấy nhớ! Tã mà lị!

Chuyên viên sân khấu :Vâng ạ! Vâng ạ! Vải trắng thì sẽ có ngay. Xé tấm biểu ngữ ra, thiếu gì !

Mọi người xúm xít quanh thằng bé. Anh lao công đi trước dẹp đường. Nhà đạo diễn bồng thằng bé trịnh trọng đi giữa. Nhà Mạnh Thường Quân vẻ mặt hớn hở đi kèm một bên. Sau hết là vị Trưởng Ban điều khiển sân khấu. Cả bọn, chẳng có ai thèm bận tâm đến ở phía sau lưng họ hai vợ chồng nhà kia bắt đầu nổi lên tiếng cãi cọ, xô xát. Rồi thì đến những cú đấm đá nhau, nghe huỳnh huỵch.

Đạo diễn:(hớn hở) Đấy, các ông xem, nếu tôi không “đuya” một chút thì làm gì có thằng bé này, vở kịch làm gì có sự linh động tuyệt vời, cứ y như là chuyện thực trên sân khấu ấy.

Thấy không ai hưởng ứng, gã cúi xuống hôn chùn chụt lên má đứa bé. Thằng bé vụt òa lên khóc.

Nhà Mạnh Thường Quân (quát)  Ông làm cái gì thế ! Bịt ngay mồm nó lại. Chưa lên sân khấu mà đã khóc toe ra  thì còn kịch cọt cái con mẹ gì nữa !

Bàn tay sần sùi của nhà đạo diễn vội đặt lên mồm thằng bé. Tiếng khóc im bặt !

……

(Người Kéo Màn, ấn bản 2002, trang 61-66)